(TBTCO) - Việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự phải dựa trên ít nhất một trong các căn cứ định giá như: giá thị trường của tài sản; giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, quyết định; giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp,...
Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 43/2018/TT-BTC hướng dẫn một số điều của Nghị định số 30/2018/NĐ-CP quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự.
Theo đó, việc định giá tài sản phải dựa trên ít nhất một trong các căn cứ định giá tài sản quy định tại Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP. Đối với căn cứ định giá tài sản quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP, trường hợp có từ 2 căn cứ trở lên, Hội đồng định giá tài sản tùy theo tính chất, đặc điểm tài sản cần định giá và tình hình thông tin thu thập được liên quan đến tài sản để xác định thứ tự ưu tiên của các căn cứ định giá tài sản.
Cụ thể, căn cứ định giá tài sản quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP bao gồm giá thị trường của tài sản; giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp; giá trong tài liệu, hồ sơ hợp pháp về loại tài sản; các căn cứ khác về giá hoặc giá trị của tài sản cần định giá.
Trường hợp căn cứ định giá tài sản là hàng cấm, thực hiện theo các quy định tại Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP. Trong đó, đối với giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp, thực hiện theo quy định (tại Điểm c Khoản 2 Điều 15).
Đối với giá thị trường trong khu vực hoặc thế giới của hàng cấm do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thông báo hoặc cung cấp thông tin thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bao gồm các cơ quan, tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật nước sở tại và được phép thông báo hoặc cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật nước này.
Các mức giá từ các nguồn thông tin, theo quy định, được xác định tại thời điểm và tại nơi tài sản được yêu cầu định giá theo yêu cầu định giá của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Trường hợp tại thời điểm được yêu cầu định giá không thu thập được các mức giá của tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự, thì áp dụng tại thời điểm định giá hoặc gần thời điểm định giá nhưng không quá 2 năm tính đến thời điểm định giá.
Khi không thu thập được các mức giá của tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự trong lãnh thổ Việt Nam, thì mở rộng việc thu thập giá tại khu vực và thế giới trên các trang thông tin điện tử chính thức của các cơ quan, tổ chức sản xuất, kinh doanh tại khu vực và thế giới.
Đồng thời, khi thu thập các mức giá trong các trường hợp, theo quy định, cần được điều chỉnh về thời điểm và địa điểm được yêu cầu định giá căn cứ theo phương pháp định giá tài sản do Hội đồng định giá tài sản quyết định (thực hiện theo quy định tại điều 5 thông tư này).
Theo Mai Đan – Thời Báo Tài Chính